Lịch sử Thị trường ngoại hối

Cổ đại

Kinh doanh và trao đổi tiền tệ lần đầu tiên xảy ra trong thời cổ đại.[5] Những người đổi tiền, những người giúp người khác đổi tiền và thu một khoản hoa hồng hoặc tính một khoản phí đã từng sống trong thời đại của các tác phẩm Talmud (thời đại Kinh Thánh). Những người này (đôi khi được gọi là "kollybistẻs") đã sử dụng các quầy hàng thành phố, và vào những thời điểm lễ hội thì là các đền miếu của Tòa dân ngoại để thay thế.[6] Những người đổi tiền cũng có trong thời gian cổ xưa gần đây hơn so với thợ bạc và/hoặc thợ vàng.[7]

Trong suốt thế kỷ 4 chính quyền Byzantin giữ độc quyền việc trao đổi tiền tệ.[8]

Trung cổ và về sau

Trong suốt thế kỷ thứ mười lăm gia đình Medici đã được yêu cầu để mở các ngân hàng tại các địa điểm nước ngoài để trao đổi tiền tệ để hành động cho các nhà buôn hàng dệt may.[9][10] Để tạo thuận lợi cho trao đổi ngân hàng này tạo ra sổ sách kế toán nostro (từ tiếng Ý được dịch - "của chúng ta") trong đó có hai mục cột cho thấy lượng nội tệ và ngoại tệ, liên quan thông tin đến việc giữ của một tài khoản với một ngân hàng nước ngoài.[11][12][13][14] Trong thế kỷ 17 (hoặc 18) Amsterdam đã duy trì một thị trường forex hoạt động.[15] Trong năm 1704 ngoại hối đã diễn ra giữa các đại lý hoạt động vì lợi ích của các quốc gia Anh và Hà Lan.[16]

Cận đại

Hãng Alexander Brown & Sons đã thỉnh thoảng thực hiện các trao đổi ngoại tệ khoảng năm 1850 và đã là người tham gia dẫn đầu trong lĩnh vực này tại Hoa Kỳ[17] Trong năm 1880 J.M. do Espírito Santo de Silva (Banco Espírito e Comercial de Lisboa) được áp dụng cho và được cho phép để bắt đầu thu hút các doanh nghiệp giao dịch ngoại hối.[18][19]

Năm 1880 được coi là một nguồn cho là sự khởi đầu của ngoại hối hiện đại, quan trọng đối với thực tế của bắt đầu bản vị vàng trong năm này.[20]

Trước chiến tranh thế giới thứ nhất có một kiểm soát hạn chế nhiều hơn về thương mại quốc tế. Bị thúc đẩy bởi lý do chiến tranh các quốc gia đã từ bỏ hệ thống tiền tệ bản vị vàng.[21]

Hiện đại tới hậu hiện đại

Từ 1899 tới 1913 các nắm ​​giữ ngoại hối của các nước tăng 10,8%, trong khi các nắm giữ vàng tăng 6,3%.[22]

Tại thời điểm đóng cửa của năm 1913, gần một nửa ngoại hối của thế giới được thực hiện bằng cách sử dụng đồng bảng Anh.[23] Số lượng các ngân hàng nước ngoài hoạt động trong phạm vi ranh giới của London đã tăng lên trong những năm 1860-1913 từ 3 lên 71. Năm 1902 có tất cả là hai nhà môi giới ngoại hối London.[24] Trong những năm đầu của thế kỷ hai mươi trao đổi là hoạt động mạnh nhất ở Paris, New York và Berlin, trong khi Anh hầu như không liên quan trong trao đổi cho đến năm 1914. Từ năm 1919 đến 1922 số lao động của một nhà môi giới ngoại hối trong London tăng lên 17, năm 1924 có 40 hãng hoạt động với mục đích ngoại hối.[25] Trong những năm 1920 sự xuất hiện của trao đổi ở London giống như nhiều biểu hiện hiện đại. Đến năm 1928, trao đổi ngoại hối là một phần không thể thiếu trong hoạt động tài chính của thành phố này. Kiểm soát ngoại hối lục địa, cộng với các yếu tố khác, ở châu Âu và châu Mỹ La tinh, đã cản trở bất kỳ nỗ lực thịnh vượng bán buôn từ trao đổi cho những người trong London những năm 1930.[26]

Trong những năm 1920 ngoại hối gia đình Kleinwort được biết đến là các nhà lãnh đạo của thị trường, Japhets, S, Montagu & Co và Seligmans là những người tham gia đáng kể vẫn đảm bảo công nhận.[27] Trong năm 1945 chính phủ của quốc gia Ethiopias sở hữu một thặng dư ngoại hối.[28]

Sau CTTG II

Sau Thế chiến II Bretton Woods Accord đã được ký kết cho phép tiền tệ biến động trong phạm vi 1% mệnh giá tiền tệ.[29] Tại Nhật Bản luật pháp đã thay đổi trong năm 1954 bởi Luật Ngân hàng ngoại hối, nên, Ngân hàng Tokyo đã trở thành trung tâm ngoại hối vào tháng 9 năm đó. Từ năm 1954 và 1959 luật pháp Nhật Bản đã được thực hiện để cho phép sự bao gồm của nhiều tiền tệ phương Tây trong ngoại hối của Nhật Bản.[30]

Tổng thống Nixon là người đã kết thúc Bretton Woods Accord và tỷ giá hối đoái cố định, đem lại cuối cùng là một hệ thống tiền tệ thả nổi tự do. Sau khi chấm dứt của việc ban hành Bretton Woods Accord (trong năm 1971 [31]) thỏa thuận Smithsonian cho phép trao đổi dao động trong khoảng 2%. Trong thời gian 1961-1962 số lượng các hoạt động ngoại hối của Cục dự trữ liên bang Mỹ là tương đối thấp.[32][33] Những bên liên quan trong việc kiểm soát tỷ giá hối đoái thấy các ranh giới của Hiệp định này là không thực tế và do đó đã ngừng hiệp định này vào tháng 3 năm 1973, khi đôi khi sau đó không ai trong số các đồng tiền mạnh được duy trì với năng lực cho chuyển đổi sang vàng, các tổ chức dựa trên thay vì dự trữ tiền tệ.[34][35] Trong thời gian 1970-1973 số lượng các trao đổi diễn ra trên thị trường tăng lên gấp ba lần.[36][37][38] Tại một số thời gian (theo Gandolfo trong tháng hai-tháng 3 năm 1973) một số thị trường đã được "chia", do đó, một thị trường hai cấp tiền tệ sau đó đã được giới thiệu, với các tỷ giá tiền tệ kép. Điều này đã bị bãi bỏ trong tháng 3 năm 1974.[39][40][41]

Reuters đã giới thiệu trong tháng 6 năm 1973 màn hình máy tính, thay thế cho điện thoại và telex được sử dụng cho các báo giá giao dịch trước đây.[42]

Đóng cửa các thị trường

Do sự thiếu hiệu quả cuối cùng của Bretton Woods Accord và European Joint Float các thị trường ngoại hối đã buộc phải đóng cửa đôi khi trong năm 1972 và tháng 3 năm 1973.[43][44] Vụ lớn nhất trong tất cả các mua đô la trong lịch sử là của năm 1976 khi chính phủ Tây Đức đạt được gần 3 tỷ USD mua lại (một con số được cho là 2,75 tỷ USD trong tổng số bởi The Statesman: Số 18 năm 1974), sự kiện này cho thấy tình hình không thể cân bằng tính ổn định trao đổi bằng các biện pháp kiểm soát sử dụng vào thời điểm đó và hệ thống tiền tệ và các thị trường ngoại hối tại "Tây" Đức và các nước khác ở châu Âu bị đóng cửa trong hai tuần (trong tháng Hai và, hay, tháng 3 năm 1973. Giersch, Paqué, và Schmieding tuyên bố đóng cửa sau khi mua "7,5 triệu Dmarks" Brawley tuyên bố "... các thị trường giao dịch đã phải đóng cửa. Khi họ mở lại... 01 tháng ba" đó là một sự mua lớn xảy ra sau khi đóng cửa).[45][46][47][48]

Sau năm 1973

Thực tế năm 1973 đánh dấu điểm mà ngoại hối bị điều chỉnh quốc gia nhà nước, trao đổi ngân hàng kết thúc và thả nổi hoàn toàn, các điều kiện tương đối tự do của một thị trường có tính chất đặc tính của tình hình trong thời gian đương đại bắt đầu (theo một nguồn tin),[49] mặc dù một nguồn tin khác tuyên bố lần đầu tiên một cặp tiền tệ được đưa ra như một lựa chọn cho các thương nhân Hoa Kỳ để mua là trong năm 1982, có các tiền tệ bổ sung có sẵn của các năm tiếp theo.[50][51]

Ngày 1 tháng Giêng 1981 (như một phần của sự thay đổi bắt đầu trong năm 1978 [52]) Ngân hàng Trung ương Trung Quốc cho phép một số "doanh nghiệp" trong nước tham gia giao dịch ngoại hối.[53] Đôi khi trong những tháng của năm 1981, chính phủ Hàn Quốc đã kết thúc kiểm soát ngoại hối và cho phép trao đổi tự do xảy ra lần đầu tiên. Trong năm 1988, chính phủ các nước chấp nhận hạn ngạch của IMF cho thương mại quốc tế.[54]

Sự can thiệp của ngân hàng châu Âu đặc biệt là ngân hàng Bundesbank, đã ảnh hưởng đến thị trường ngoại hối, đặc biệt vào ngày 27 tháng 2 năm 1985.[55] Tỷ trọng lớn nhất của tất cả các trao đổi trên toàn thế giới trong năm 1987 đều nằm tại Vương quốc Anh, vượt hơn một chút so với một phần tư của Hoa Kỳ của châu Mỹ quốc gia đứng thứ hai tại hầu hết các địa điểm liên quan đến trao đổi.[56]

Trong năm 1991, nước cộng hòa Iran thay đổi các điều ước quốc tế với một số nước từ trao đổi dầu tới ngoại hối.[57]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Thị trường ngoại hối http://www.bankofcanada.ca/en/rates/exchform.html http://www.euromoney.com/poll/3301/PollsAndAwards/... http://www.google.com/search?q=modern+foreign+exch... http://au.ibtimes.com/articles/110821/20110210/wha... http://au.ibtimes.com/forex http://www.investopedia.com/ http://www.investopedia.com/articles/forex/08/top-... http://www.investopedia.com/terms/o/overbought.asp http://www.investopedia.com/terms/r/riskaverse.asp http://michaelguth.com/economist/chap1.htm